Xuất bản thông tin

null Rút kinh nghiệm đối với Bản án dân sự “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu di dời nhà trả đất”

Chi tiết bài viết VKS_HOATDONGNGANH

Rút kinh nghiệm đối với Bản án dân sự “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu di dời nhà trả đất”

Nhận thấy Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân (TAND) huyện T xét xử về việc “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu di dời nhà trả đất” có nhiều vi phạm nghiêm trọng về tố tụng và nội dung nên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Đồng Tháp đề nghị hủy án để xét xử lại và được Tòa án phúc thẩm chấp nhận...

= = =

         

 

Nguyên đơn trình bày: Nguồn gốc phần đất tranh chấp giữa bà Đ với bà V, ông H và ông L trước đây là của cụ Nguyễn Quang Q (cha chồng bà Bùi Thị Q) khai mở và sử dụng trước năm 1975 có chiều ngang khoảng 32 mét, chiều dài từ Quốc lộ 30 trở ra sau hậu đất ruộng. Trước 1975 còn loạn lạc nên cụ Q di dời về tỉnh An Giang sinh sống. Còn bà Bùi Thị Q (con dâu cụ Q và là mẹ bà Đ và ông L) và bà Đ ở lại quản lý và sử dụng phần đất trên. Sau năm 1975, bà Bùi Thị Q tiếp tục quản lý và sử dụng phần đất trên để cất nhà ở và trồng cây. Trong quá trình quản lý và sử dụng bà Bùi Thị Q có sang nhượng thêm được một phần đất liền ranh với phần đất trên, chiều ngang 10 mét, chiều dài cũng từ Quốc lộ 30 trở ra sau hậu khoảng 35 mét. Năm 1992-1993 bà Bùi Thị Q được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, thuộc thửa đất số 781, tờ bản đồ số 1, diện tích 1.250m2. Năm 2001, bà Bùi Thị Q làm thủ tục tặng cho lại bà Đ có sự chứng kiến của bà B và ông L biết và ông L ký tên vào giấy Từ chối nhận di sản. Sau đó bà Bùi Thị Q và bà Đ làm thủ tục sang tên theo quy định.

Năm 2006-2007, bà Đ thấy bà V (con ông L) không có chổ ở nên cho mượn 1 phần đất để cất nhà ở.

Năm 2007-2008, bà Đ thấy ông H và L không có chổ ở nên mới kêu về cho mượn 1 phần đất để cất nhà ở.

Do hiện nay bà Đ cần sử dụng phần đất trên nên yêu cầu bà V, ông H và ông L di dời nhà trả đất cho bà Đ nhưng bà V, ông H và ông L không chịu di dời.

Nay bà Đ yêu cầu bà V, ông H và ông L di dời nhà trả đất cho bà Đ phần đất thuộc 1 phần thửa 781, tờ bản đồ số 1 do bà Đ đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Các bị đơn trình bày: Nguồn gốc phần đất bà V, ông H, ông L đang cất nhà ở là của cụ Q (ông nội ông), cụ Q (cha của ông Đ, ông C, ông N, bà N và ông K) khai mở có chiều ngang là 32,80 mét, chiều dài tới sau hậu đất ruộng, lúc còn sống cụ Q có chia lại cho các con gồm: ông Nguyễn Quang Đ (Cha, mẹ ông L và bà Đ), Nguyễn Quốc C (cha ông H), Nguyễn Thị N (mẹ của ông Nguyễn Quang K), ông Nguyễn Quang N (cha của Nguyễn Quang L). Lúc chia đất thì cụ Q chia cho các con mỗi người chiều ngang 6 mét, chiều dài 50 mét.

Sau giải phóng 1975, Nhà nước có chủ trương cắt xâm canh, lúc đó gia đình ông ở tỉnh An Giang nên không nhận đất được, mới thống nhất giao lại cho bà Đ ở tại chổ nhận phần đất trên, tiến hành kê khai và được cấp Giấy chứng nhận QSD đất. Sau khi bà Đ được cấp Giấy chứng nhận QSD đất, bà Đ lập tờ tự thuận ngày 16/5/2004 phân chia phần đất trên lại cho các anh, em ông theo như lời phân chia của cụ Q. Phần đất ông được bà Đ chia có chiều ngang là 06 mét, chiều dài là 50 mét tính từ QL 30 ra đến sau hậu. Hiện nay căn nhà của ông cất chiều ngang 06 mét, chiều dài khoảng 22 mét.

Nay ông yêu cầu được sử dụng chiều ngang 06 mét, chiều dài hết thửa 781 (khoảng 30 mét) do bà Đ đứng tên Giấy chứng nhận QSD đất. Phần chiều dài còn lại ông không tranh chấp.

Yêu cầu bà Đ lập thủ tục sang tên phần đất đã chia cho ông, thuộc 1 phần thửa đất số 781, tờ bản đồ số 1, theo diện tích nêu trên.

Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đ buộc hộ bà V, ông H và ông L di dời nhà trả đất cho bà Đ..

Bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp tuyên xử:

Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T giao cho Tòa án nhân dân huyện T giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:

- Thứ nhất, căn cứ sổ hộ khẩu gia đình ông H gồm: ông H, bà bà Cao Mỹ O (vợ ông H), và các con là Nguyễn Thị Kiều N, Nguyễn Thị Kiều T. Sổ hộ khẩu gia đình ông L gồm: ông L, bà Tô Thị Kim H (vợ ông L), con là Nguyễn Thị Kim N. Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án có liên quan đến 02 căn nhà của hộ ông H và ông L nhưng không đưa vợ con ông H và ông L vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu tư cách đương sự, ảnh hưởng quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.

- Thứ hai, ông L có yêu cầu độc lập đối với bà Đ, ông L yêu cầu bà Đ trả lại diện tích 1.250m2 đất thuộc thửa 781, tờ bản đồ số 1 đồng thời thu hồi giấy chứng nhận QSDĐ của bà Đ để ông đăng ký QSDĐ. Tranh chấp giữa ông L bà Đ là tranh chấp QSDĐ được quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao thì phải được hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn nhưng trong hồ sơ không có biên bản hòa giải cấp sơ sở giữa bà Đ với ông L là vi phạm.

- Thứ ba, ông L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà V làm đơn kháng cáo nhưng bà V không ký tên, không nộp tiền tạm ứng án phí. Tòa án cấp sơ thẩm khi nhận đơn kháng cáo của ông L không hướng dẫn cho bà V làm đơn kháng cáo và nộp án phí theo quy định.

- Thứ tư, tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 16/6/2020, có nhà bếp diện tích 18,9m2, nhà củi diện tích 2,7m2 và nhà tắm diện tích 18,9m2 của bà V trên phần đất tranh chấp thuộc thửa 781, tờ bản đồ số 01, nhưng không mô tả loại nhà, không tổ chức định giá là thiếu sót khi xem xét giải quyết các vấn đề trên.

Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng do đó Tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện T giải quyết lại theo thủ tục chung.

      

Cẩm Tú, Phòng 9 - VKSND tỉnh Đồng Tháp