Xuất bản thông tin

null Hủy án sơ thẩm do nhận định sai về tài sản chung của vợ - chồng

Chi tiết bài viết VKS_HOATDONGNGANH

Hủy án sơ thẩm do nhận định sai về tài sản chung của vợ - chồng

 

Bà Hương và ông Bình kết hôn vào năm 1996, đăng ký kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Khoảng 06 năm gần đây, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, cố gắng tìm cách khắc phục nhưng không có kết quả. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Hương xin ly hôn với ông Bình. Ông Bình thống nhất thuận tình ly hôn. Về con chung: không có.

- Về tài sản: gồm nhiều thửa đất, nhà ở và xe máy.

Ông Bình đồng ý chia hai, yêu cầu nhận đất và trả ½ giá trị cho bà Hương.

Đối với thửa đất 1076, 1077, TBĐ 01, tọa lạc tại xã B, huyện C, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cấp cho ông Bình. Bà Hương khởi kiện yêu cầu chia hai, bà Hương đồng ý nhận ½ giá trị đất. Ông Bình cho rằng đất này ông mua đi bán lại, là tài sản riêng của ông Bình nên không đồng ý chia. Ông Bình cho rằng mua đất nhưng không bán được, do kẹt tiền nên cầm cố cho người khác với số tiền 250.000.000đ, để dùng sinh hoạt chi tiêu trong gia đình và trả lãi Ngân hàng, là nợ chung của vợ chồng. Ông Bình yêu cầu phản tố, yêu cầu bà Hương chịu ½ số tiền trên là 125.000.000đ.

Ảnh minh họa

 

Bà Hương xác định là tài sản chung vì đất mua để bán lại kiếm lời (kinh doanh bất động sản). Bà Hương không biết việc ông Bình vay tiền của chị Trang, không biết việc ông Bình đem 02 GCN của thửa 1076 và 1077 cầm cố, không biết đến số tiền này nên không đồng ý yêu cầu của ông Bình. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, bà Hương phát hiện ông Bình đã chuyển nhượng 02 thửa đất này cho anh Hữu, chị Thảo với giá 300.000.000đ, có viết giấy tay, chưa làm thủ tục sang tên, hiện anh Hữu và chị Thảo đang quản lý, sử dụng. Bà Hương yêu cầu hủy một phần hợp đồng CNQSD đất giữa ông Bình với anh Hữu, chị Thảo đối với thửa 1077 vì ông Bình chuyển nhượng mà không bàn bạc với bà Hương. Bà Hương yêu cầu chia đôi 02 thửa 1076 và 1077, bà Hương nhận thửa 1077 và đồng ý trả giá trị chênh lệch cho ông Bình theo giá của Hội đồng định giá.

Anh Tường đại diện ủy quyền trình bày anh Hữu, chị Thảo sử dụng đất trồng lúa và đào ao nuôi cá, nếu có căn cứ hủy hợp đồng thì yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng, yêu cầu ông Bình trả lại tiền chuyển nhượng 300.000.000đ và bồi thường hợp đồng, công tôn tạo đất và trượt giá là 450.000.000đ. Nếu xác định là tài sản chung của ông Bình, bà Hương thì yêu cầu ông Bình và bà Hương liên đới thực hiện hợp đồng hoặc bồi thường hợp đồng, gồm tiền chuyển nhượng 300.000.000đ, thiệt hại trượt giá 300.000.000đ và đầu tư, cải tạo đất 150.000.000đ.

Về nợ chung: Bà Hương và ông Bình có vay Ngân hàng Á Châu số tiền 3.000.000.000đ theo hợp đồng 21/12/2017. Tài sản đảm bảo là 02 thửa đất. Bà Hương đồng ý trả ½ vốn và ½ lãi cho Ngân hàng, yêu cầu ông Bình trả ½ vốn và ½ lãi cho Ngân hàng. Tại phiên tòa, đối với tài sản thế chấp, bà Hương yêu cầu chia tài sản trước, khi bản án có hiệu lực, bà Hương mới trả Ngân hàng. Ông Bình đồng ý trả ½ vốn và ½ lãi cho Ngân hàng, đối với tài sản thế chấp, khi bản án có hiệu lực, nếu không có khả năng trả nợ thì đương nhiên Ngân hàng có quyền xử lý tài sản thế chấp.

Ngân hàng Á Châu có yêu cầu độc lập, yêu cầu ông Bình và bà Hương liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, tổng số nợ đến ngày 30/7/2018 là 3.053.765.260đ và chịu lãi phát sinh đến khi trả dứt nợ; xử lý tài sản bảo đảm theo các HĐ thế chấp. Tài sản thế chấp tiếp tục dùng đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng đến khi thanh lý hợp đồng thì ông Bình, bà Hương mới được thực hiện các giao dịch liên quan đến các tài sản này, đồng thời yêu cầu giải quyết hợp đồng thế chấp khi đương sự không có khả năng thi hành án.

Bản án sơ thẩm ngày 26/7/2019 của Tòa án sơ thẩm, tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Hương. Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Bình.

- Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Hương và ông Bình.

- Về con chung: Không có.

- Về tài sản chung, nợ chung:

...

Không chấp nhận yêu cầu của bà Hương về việc yêu cầu ông Bình chia tài sản chung thửa đất 1077, TBĐ số 01, tọa lạc xã B, huyện C do ông Lê Văn Bình đứng tên và yêu cầu hủy hợp đồng CNQSD đất giữa ông Bình và anh Hữu, chị Thảo đối với thửa đất 1076 và 1077, TBĐ số 1, tọa lạc xã B, huyện C.

- Công nhận thỏa thuận của anh Hữu, chị Thảo với ông Bình. Ông Bình đồng ý tiếp tục hợp đồng CN hai thửa 1076 và 1077 cho anh Hữu, chị Thảo.

...

Sau khi xét xử sơ thẩm,

Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB); bà Hương ông Bình: kháng cáo bản án sơ thẩm.

Anh Hữu và chị Thảo có văn bản ý kiến và yêu cầu: yêu cầu ông Bình tiếp tục thực hiện HĐCN 02 thửa 1076 và 1077, TBĐ 01, tọa lạc xã B, huyện C.

Quyết định kháng nghị phúc thẩm ngày 26/8/2019 của Viện trưởng Viện KSND tỉnh Đồng Tháp: Tòa cấp sơ thẩm có vi phạm về tố tụng, thu thập tài liệu chứng cứ chưa đầy đủ, chưa xem xét giải quyết toàn diện nội dung vụ án liên quan đến chia tài sản chung và nợ chung.

Tòa án sơ thẩm chưa thua thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ:

Thứ nhất, Đối với đất và nhà tại thửa 82, TBĐ 02, hồ sơ không thể hiện bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc của thửa 82 nêu trên mà thể hiện bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc ngày 9/10/2018 về hiện trạng đất tranh chấp giữa bà Hương và ông Bình thửa 286, TBĐ 13, Tòa chưa làm rõ có việc cấp đổi thửa theo bản đồ địa chính hay không.

Thứ hai, Đối với thửa đất 1076, 1077, TBĐ 01, tọa lạc xã B, huyện C, tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 15/3/2019, bà Hương không xác định được ranh đất cũng như vị trí thửa đất, bà Hương có yêu cầu mời bà Thanh và ông Khương – người bán đất cho ông Bình, bà Hương trước đây nhưng không được Tòa xem xét. Theo biên bản thẩm định này, người chỉ ranh là anh Hữu, có sự đồng ý của bà Mai đại diện ông Bình, có chữ ký của người giáp ranh là Sơn nhưng khi đối chiếu với Sơ đồ mốc ngày 15/3/2019 thì các mốc là do ông Tâm, Dũng, Hùm xác định. Ngoài ra, tại Sơ đồ mốc ngày 15/3/2019 và Mảnh trích đo số 01-2019 ngày 23/4/2019 đều có chêch lệch vị trí ranh đất được cấp giấy theo bản đồ so với vị trí ranh đất theo hiện trạng, cụ thể là thửa 1076 có chêch lệch diện tích so với vị trí ranh cấp giấy theo bản đồ, Tòa không làm rõ phần diện tích này có nằm trong thửa 25 liền kề hay không, để xác định chủ sử dụng thửa 25 có ý kiến gì đối với phần diện tích này.

Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Tường đại diện anh Hữu, chị Thảo cho rằng anh Hữu, chị Thảo có đầu tư, cải tạo đất nhận chuyển nhượng của ông Bình để trồng lúa, đào ao nuôi cá nhưng theo biên bản thẩm định ngày 15/3/2019 trên thì Tòa án không ghi rõ hiện trạng đất. Anh Tường có yêu cầu đối với trường hợp thửa 1076, 1077 là tài sản chung của vợ chồng, có căn cứ hủy hợp đồng thì anh Hữu, chị Thảo yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng, yêu cầu ông Bình và bà Hương bồi thường thiệt hại của hợp đồng và công cải tạo đất. Tòa sơ thẩm không xem xét làm rõ các vấn đề trên.

Bản án nhận định là tài sản riêng của ông Bình chưa phù hợp. Bởi vì, ông Bình có yêu cầu phản tố yêu cầu bà Hương có nghĩa vụ trả ½ của số tiền 250.000.000đ mà ông Bình cầm cố 02 GCN của 02 thửa đất trên, lời trình bày của ông Bình và người đại diện của ông Bình trước sau không thống nhất, khi thì trình bày do đất bán không được, kẹt tiền nên phải cầm cố GCN vay 250.000.000đ, có lúc cho rằng vay tiền để mua đất, cho rằng đã chuyển nhượng đất để trả nợ hết nên không còn để chia, cho thấy mặc nhiên ông Bình thừa nhận 02 thửa đất trên là tài sản chung, đã bán lấy tiền trả nợ nên không còn để chia. Ngoài lời trình bày của chị Trang là người cho vay tiền và anh Hữu, chị Thảo là người mua đất, ông Bình không có chứng cứ nào khác để chứng minh 02 thửa đất này là tài sản riêng. Theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình quy định:

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức pháp sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

Mặt khác, ông Hồng trình bày thửa 1076, 1077 do ông đứng tên nhưng không sử dụng mà do mẹ của ông quản lý sử dụng và cho anh Hữu, chị Thảo thuê mướn. Ông Hồng cung cấp 2 GCNQSD đất thửa 1076, 1077 do Sở TN&MT cấp đổi cho ông Hồng cùng ngày 21/8/2017, trùng hợp với 2 GCNQSD đất mà Sở TN&MT cấp cho ông Bình cùng ngày 21/8/2017. Cho thấy, thửa đất 1076, 1077 được cấp GCNQSDĐ cho cả ông Hồng và ông Bình là không đúng quy định pháp luật.

Bản án tuyên liên quan đến yêu cầu độc lập của Ngân hàng là chưa phù hợp. Bởi vì, theo quy định tại khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 27, khoản 1 Điều 60 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định:

“1. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng là nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này;

1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác”.

Thì, nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng là nghĩa vụ chung, do ông Bình và bà Hương thỏa thuận thế chấp tài sản ở thửa 82 và thửa 89 để vay tiền. Do đó, ông Bình và bà Hương phải cùng nhau chịu trách nhiệm liên đới đối với khoản nợ tại Ngân hàng Á Châu là phù hợp với quy định.

Qua nội dung, các tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án, Tòa cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng và nội dung giải quyết là chưa thu thập tài liệu chứng cứ chưa đầy đủ để làm cơ sở đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện, chưa xem xét triệt để các vấn đề cần giải quyết liên quan nội dung vụ án, dẫn đến phần chia tài sản chung và nợ chung khi ly hôn, thiếu tư cách đương sự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, HĐXX phúc thẩm hủy án sơ thẩm.

                     Đặng Phước Dư, Phòng 9 – Viện KSND tỉnh Đồng Tháp