BÙI THANH KHIẾT
(1924 – 1984)
Ông Bùi Thanh Khiết sanh ngày 30-12-1924, quê làng Tân An, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Mỹ Tân, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Nhà nghèo, thuở nhỏ ông ở với cậu để đi học. Sau khi đậu Thành Chung, ông đi làm kiểm lâm ở Thủ Dầu Một. Ông tham gia Giải phóng quân từ năm 1945. Năm 1946 ông bị Pháp bắt, tra tấn dã man, ông nhận mọi việc về mình để hai đồng chí bị bắt chung được thả. Vốn có uy tín với giới trí thức Sài Gòn, báo chí đấu tranh đòi thả ông. Pháp buộc thả ông với điều kiện ông thôi đi kháng chiến. Ông trả lời: “Còn Pháp ở nước tôi là tôi còn kháng chiến”. Ngày 4-1-1947 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông làm Trưởng phòng Chánh trị Quân khu 7, viết báo Tiền Đạo lấy bút danh Thiết Khanh. Cuối năm 1947 ông về làm Trưởng phòng Chánh trị Quân khu 9 và Trưởng ban Chánh trị tỉnh Long Châu Hà.
Tập kết ra Bắc, ông được cử làm Chánh ủy Trung đoàn, rồi Phó Chủ nhiệm Chánh trị Sư đoàn.
Sau khi tốt nghiệp Đại học, ông sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh lấy bằng Phó Tiến sĩ Triết học. Năm 1964 ông trở về Nam chiến đấu, là Phó Chánh ủy Quân khu 8, Khu ủy viên rồi Phó Chánh ủy Quân khu 9, Khu ủy viên khu Tây Nam Bộ.
Năm 1973, ông được phong quân hàm Đại tá, là Bí thư Đảng ủy, Phó Trưởng đoàn đại biểu Chánh phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Ban liên hiệp quân sự bốn bên và hai bên, đóng tại sân bay Tân Sơn Nhứt. Sau đó, ông làm Phó Chủ nhiệm Cục chánh trị Bộ Tư lịnh Quân Giải phóng miền Nam, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.
Miền Nam được giải phóng, ông là ủy viên thường trực Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định, rồi Ủy viên Ủy ban Nhân dân kiêm Giám đốc Sở Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh. Cuối năm 1976, ông được cử làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục, Bí thư Đảng đoàn Bộ Giáo dục.
Ông được bầu Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IV và là Ủy viên chánh thức khóa V. Từ tháng 8-1979, ông là Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Tháng 4-1981, ông được bầu vào Quốc hội khóa VII, đại biểu tỉnh Đồng Tháp, và được cử làm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật của Quốc hội. Ông còn được giao các nhiệm vụ Trưởng ban Thơ ký Ủy ban Cải cách giáo dục trung ương, Chủ tịch Hội đồng đào tạo, bồi dưỡng và phân phối cán bộ Khoa học kỹ thuật trung ương.
Do bịnh nặng, ông từ trần ngày 7-1-1984, hưởng thọ 60 tuổi.
Công lao của ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhứt, Huân chương Quân công hạng Nhứt, Huân chương Kháng chiến hạng Nhứt, Huân chương Quân công Giải phóng hạng Nhứt, Huân chương Chiến thắng hạng Nhứt, Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhứt, Nhì, Ba, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhứt, Nhì, Ba.