Xuất bản thông tin

null Biện pháp cưỡng chế áp giải đối đối với người dưới 18 tuổi dưới góc độ Quyền con người

Chi tiết bài viết VKS_TIN PHAPLUAT_XAHOI_BLKHOAHOC

Biện pháp cưỡng chế áp giải đối đối với người dưới 18 tuổi dưới góc độ Quyền con người

Quyền của người dưới 18 tuổi là giá trị mang tính phổ biến của nhân loại, là kết quả của quá trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên toàn thế giới...

= = =

Tóm tắt: Hiến pháp năn 2013 ra đời thể hiện tinh thần bảo vệ rất cao quyền con người, quyền công dân. Bài viết phân tích làm rõ việc bảo vệ quyền con người áp dụng biện pháp cưỡng chế áp giải đối với người dưới 18 tuổi thể hiện qua một số nội dung mà cụ thể là: 1.Quan điểm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi dưới góc độ quyền con người. 2 Nguyên tắc tiến hành tố tụng bảo đảm quyền con người của người dưới 18 tuổi trong đó có người bị buộc tội. 3Thực trạng quy đinh và áp dụng các quy định pháp luật về biện pháp cưỡng chế áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. 4. Các kiến nghị hoàn thiện.

Từ khóa: Biện pháp cưỡng chế áp giải; Người dưới 18 tuổi, Quyền con người; Tố tụng hình sự;

Dẫn nhập: Quyền con người nói chung và quyền của người dưới 18 tuổi nói riêng là giá trị mang tính phổ biến của nhân loại, là kết quả của quá trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên toàn thế giới. Quyền của người dưới 18 tuổi được đặt trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách nhiệm của người dưới 18 tuổi đối với xã hội và được giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợi ích xã hội. Bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của người dưới 18 tuổi nói riêng là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên tinh thần này BLTTHS năm 2015 đã chú trọng đặc biệt đến tôn trọng vào bảo vệ quyền con người trong việc giải quyết vụ án hình sự nhất là đối với Biện pháp cưỡng chế áp giải đối với người dưới 18 tuổi. Vì vậy trong phạm vi bài viết này tác giải phân tích những khía cạnh về quyền con người của các quy định về Biện pháp cưỡng chế áp giải đối với người dưới 18 tuổi trong BLTTHS năm 2015 và các quy định khác có liên quan.

 

  1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI DƯỚI GÓC ĐỘ QUYỀN CON NGƯỜI.

Quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự là nhân tố cực kỳ quan trọng quyết định ý nghĩa, nội dung, hình thức của hoạt động tố tụng hình sự. Đây cũng là cách tiếp cận mới có tính phương pháp luận khi nghiên cứu việc hoàn thiện tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự của một Nhà nước pháp quyền phải hướng tới việc bảo vệ không chỉ quyền của người là nạn nhân của hành vi phạm tội, quyền của những người bị truy cứu tố tụng hình sự không có căn cứ, trái pháp luật mà còn bảo vệ quyền của bất kỳ công dân nào bị lôi cuốn vào hoạt động tố tụng hình sự nhằm chống lại sự lạm quyền từ phía các cơ quan tố tụng hình sự[1]. Trong phương hướng tiến tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, nội dung trọng tâm của nhà nước pháp quyền về cơ bản là ý niệm về sự giới hạn quyền lực nhà nước, tôn trọng và bảo đảm quyền con người[2] . Để chống lại sự tùy tiện của công quyền, có thể xâm hại quyền tự do cơ bản của công dân, phải có được sự thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, đặt các thiết chế quyền lực trong sự ràng buộc của Hiến pháp và pháp luật, kiểm soát quyền lực, bảo đảm sự phân quyền, sự độc lập của Tòa án, bảo đảm tính minh bạch của pháp luật. Chính sự đề cao, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là cách thức để tạo ra “một sự đối lập với quyền lực nhà nước bằng pháp luật[3].              Trong quá trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước phán quyền Ở nước ta đã quyết tâm trong việc xây dựng một môi trường pháp lý an toàn và mang đậm tính nhân đạo có khả năng xác lập, duy trì và bảo đảm các quyền con người nói trong và đặc biệt là quyền của của người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Theo đó tại Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2000 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ “Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức…”, “Phổ biến rộng rãi và tổ chức thực hiện tốt các Công ước quốc tế, Hiệp định tương trợ tư pháp và các Hiệp định hợp tác phòng, chống tội phạm mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc tham gia…”. Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định “Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia…”. Những quan điểm chỉ đạo và quy định nêu trên vừa là định hướng, vừa là cơ sở chính trị pháp lý quan trọng cho việc nội luật hóa các điều ước quốc tế nói chung và có tác dụng định hướng việc xây dựng luận cứ khoa học để hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực thi các công ước quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự người dưới 18 tuổi[4]. Chúng ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), hội nhập sâu vào quan hệ quốc tế như tham gia các Công ước Quốc tế, đặc biệt là Công ước về quyền trẻ em - một văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em trong thời điểm hiện nay. Những chuẩn mực quốc tế trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc sẽ tham gia ký kết trong tương lai là những yêu cầu khách quan đòi hỏi tăng cường sự bảo đảm Quyền con người trong tố tụng hình sự. Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng chủ đạo trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự là “cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa án làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp…[5].

2.VỀ NGUYÊN TẮC TIẾN HÀNH TỐ TỤNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TRONG ĐÓ CÓ NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI.

Người bị buộc tội dưới 18 tuổi thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và sự bảo vệ đặc biệt nhóm đối tượng này được quy định trong luật quốc tế và luật pháp của tất cả quốc gia, chỉ khác nhau về cách thức và mức độ[6].Cụ thể Trong pháp luật Việt nam hiện hành, khái niệm về trẻ em và người chưa thành niên được định nghĩa hoàn toàn không giống với pháp luật quốc tế. Thực tế cho thấy trong BLHS năm 2015 lại dùng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi phạm tội”, còn theo BLTTHS năm 2015 họ là “người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi”. Những tên gọi này không làm theo đổi bản chất vốn có của khái niệm người chưa thành niên trong lĩnh lực tư pháp hình sự, vì thực chất, độ tuổi của nhóm chủ thể này vẫn giữa nguyên. Người bị buộc tội dưới 18 tuổi thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và sự bảo vệ đặc biệt nhóm đối tượng này được quy định trong luật quốc tế và luật pháp của tất cả quốc gia, chỉ khác nhau về cách thức và mức độ[7].

 Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 kế thừa những điểm tiến bộ trong các Bộ luật trước đây, phù hợp với luật pháp quốc tế, xây dựng thủ tục tố tụng riêng đối với người dưới 18 tuổi là người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng tại Phần thứ bảy: Thủ tục đặc biệt thuộc Chương XXVIII - Đây là một thủ tục đặc biệt được áp dụng với đối với người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi. Quy định thủ tục riêng này bảo đảm tuân thủ quy định tại Khoản 3 Điều 40 Công ước quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989: “Các quốc gia thành viên phải tìm cách thúc đẩy việc thiết lập những đạo luật, thủ tục, các cơ quan và thể chế áp dụng riêng cho những trẻ em bị tình nghi, bị cáo buộc hay bị xác nhận là vi phạm pháp luật hình sự[8]”, cũng như các Công ước khác về quyền con người mà Việt Nam tham gia.

Bộ luật TTHS năm 2015 xây dựng một chương riêng  về nguyên tắc tiến hành tố tụng (Điều 414) trong đó quy định: khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự có người bị buộc tội, người làm chứng, người bị hại dưới 18 tuổi phải tuân theo các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi.

Thứ hai, Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi.

Thứ ba, Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18 tuổi, nhà trường, Ðoàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt;

Thứ tư, Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi.

Thứ năm, Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi.

Thứ sáu, Bảo đảm các nguyên tắc xử lý của Bộ luật Hình sự (BLHS) đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Thứ bảy,  Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi.

Đây là toàn bộ những nguyên tắc tiến hành tố tụng bảo đảm quyền con người của người dưới 18 tuổi trong đó có người bị buộc tội đã đảm bảo được chính sách  tố tụng hình sự nhân đạo của Nhà nước ta nhằm giáo dục, cảm hóa họ, tạo điều kiện tốt nhất để cho họ có cơ hội sửa chữa sai lần của bản thân trở thành người tố của xã hội. Vì cơ bản con người đều thừa nhận ở lứa tuổi này sự phát triển về nhân cách còn chưa hoàn thiện, khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi còn chưa đầy đủ trước yêu cầu phải bảo vệ quyền con người đối với những đối tượng này là rất cần thiết.

3. THỰC TRẠNG QUY ĐINH VÀ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ ÁP GIẢI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI.

Theo Từ điển Luật học thì biện pháp cưỡng chế có nghĩa là “biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực của một cá nhân tổ chức có thẩm quyền[9]”. Có thể thấy, đây là biện pháp mang tính quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện những trình tự, thủ tục và điều kiện nhất định. Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm pháp luật mà cưỡng chế có nhiều hình thức khác nhau như: cưỡng chế hành chính, cưỡng chế dân sự, cưỡng chế tố tụng hình sự… Trong khoa học hình sự Việt Nam, các biện pháp cưỡng chế được hiểu là biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng với đối tượng, trong trường hợp, theo trình tự, thủ tục luật định nhằm ngăn chặn tội phạm, loại trừ những hành vi cản trở, gây khó khăn trong việc giải quyết các vụ án hình sự[10].   Biện pháp áp giải là một trong các biện pháp cưỡng chế thuộc nhóm các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Khái niệm về áp giải được BLTTHS năm 2015 định nghĩa như sau: “Áp giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử[11]”. Biện áp cưỡng chế áp giải không có trong giai đoạn thi hành án bởi lẽ trong thực tế trường hợp người bị kết án nếu không chấp hành việc thi hành án sẽ bị áp giải thi hành án theo đó: “Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, người chấp hành án phải có mặt tại trụ sở cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu được chỉ định trong quyết định thi hành án; quá thời hạn này mà người đó không có mặt, Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp hoặc Vệ binh hỗ trợ tư pháp thực hiện áp giải thi hành án[12]”. Đây là nhiệm vụ của cơ quan thi hành án hình sự không thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTHS.  So với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 lần đầu tiên đưa ra khái niệm áp giải là gì. Xét về mặt kỹ thuật lập pháp, khái niệm “áp giải” trên được xây dựng dựa trên phương pháp định tính tức là được xây dựng dựa trên các tiêu chí để xác định biện pháp áp giải bao gồm: đối tượng, thẩm quyền và căn cứ… áp dụng để người đọc hình dung một cách khái quát về đối tượng, trường hợp bị áp dụng biện pháp cưỡng chế này.

Về bản chất Biện pháp cưỡng chế trong đó có biện pháp áp giải ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi quyền con người nói chung và ảnh hưởng rất lớn đến người dưới 18 tuổi phạm tội cho nên mọi trường hợp BLTTHS quy định chỉ được quy định biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc là người dưới 18 tuổi khi thật cần thiết, Không được bắt đầu việc áp giải người vào ban đêm; không được áp giải, dẫn giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế. Ngoài ra tại Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21 tháng 12 năm 2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi có quy định chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế áp giải đối với người dưới 18 tuổi chỉ trong 02 trường hợp sau đây:

1. Bị can, bị cáo đã có giấy triệu tập đến lần thứ hai nhưng cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;

            2. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị can, bị cáo đang bị tạm giam từ nơi bị giam, giữ đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án.[13]

Theo đó quy định trên phù hợp với nguyên tắc “Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi”[14] phù hợp với cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia như:“Trong mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, dù được thực hiện bởi các cơ quan phúc lợi xã hội của nhà nước hay tư nhân, bởi tòa án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan pháp luật, thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu[15]”; “Các Quốc gia thành viên Công nhận quyền của mọi trẻ em bị tình nghi, bị cáo buộc hay bị xác nhận là đã vi phạm luật hình sự được đối xử theo cách thức phù hợp với việc thúc đẩy nhận thức của trẻ em về nhân cách và phẩm giá vốn có, một cách thức tăng cường sự tôn trọng của trẻ em đối với những quyền và tự do cơ bản của người khác và có tính đến độ tuổi của trẻ em cũng như mong muốn thúc đẩy sự tái hòa nhập của trẻ  và giúp trẻ em đảm đương một vai trò có tính chất xây dựng trong xã hội[16]; “Người chưa thành niên là trẻ em hay thanh thiếu niên mà tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xử lý khi phạm tội, theo một phương thức khác với người lớn”[17]. Có thể nhận thấy rằng việc áp dụng biện pháp cưỡng chế sẽ gây ảnh hưởng đến tâm sinh lý, lứa tuổi của người dưới 18 tuổi, Vì vậy việc quy định như vậy sẽ tạo nên môi trường pháp lý đối với người dưới 18 tuổi đảm bảo sự thân thiện, phù hợp với tâm sinh lý, lứa tuổi của người chưa thành niên. Như vậy, khi áp dụng thủ tục này thì ngoài việc phải bảo đảm thực thi công lý, thì cần hướng tới mục đích giáo dục, hướng thiện đối với họ là chủ yếu, đồng thời đảm bảo lợi ích tốt nhất, vì tương lai của họ cho dù đó là người bị buộc tội.

Tuy nhiên, trường hợp nào được coi là “thật cần thiết”, thì BLTTHS năm 2015 chưa giải thích rõ và đến nay cũng chưa có văn bản hướng dẫn. Vấn đề này phụ thuộc rất lớn vào ý chí, quan điểm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nên quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi rất dễ bị xâm phạm do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể làm dụng trên định này để thực hiện các hành vi tố tụng gây bất lợi cho người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.  Ngoài ra việc quy định “Bị can, bị cáo đã có giấy triệu tập đến lần thứ hai nhưng cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;” vẫn còn chưa còn thiếu đồng bộ, Bởi lẽ không chỉ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án mà còn trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm đây là một giai đoạn tiền điều tra, mặc dù không cần thiêt áp dụng biện pháp ngăn chặn không giam đối với người dưới 18 tuổi nhưng vẫn cần thiết phải triệu tập người dưới 18 tuổi phạm tội đến để làm việc với cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết vụ án hình sự cho nên cần thiết việc giới hạn phạm vi chỉ áp dụng đối với “bị can, bị cáo” là chưa đồng bộ thay vì sử dụng thuật ngữ “Người bị buộc tội” với quy định BLTTHS về áp giải.

Ngoài ra việc cho người dưới 18 tuổi phạm tội vắng mặt đến lần đến 02 lần dường như đã “khuyến khích” việc bị can, bị cáo đang tại ngoại có hành vi “cố ý không có mặt” theo giấy triệu tập của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan đến 02 lần để gây khó khăn, cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Điều này đang có sự mâu thuẫn với nguyên tắc “Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi[18] và quy tắc tối thiêu của Liên hiệp Quốc “Mỗi vụ án phải được xét xử nhanh chóng ngay từ đầu, không được có bất kỳ sự trì hoãn không cần thiết nào[19].” Việc tiến hành những thủ tục chính thức một cách nhanh chóng trong các vụ án liên quan đến người chưa thành niên là vấn đề quan tâm lớn nhất. Nếu không thì bất cứ điều gì có thể đạt được nhờ thủ tục và cách xét xử sẽ đều gặp rủi ro. Khi thời gian kéo dài thì và người chưa thành niên sẽ ngày càng thấy khó, nếu không nói là không thể hiểu được sự liên hệ giữ thủ tục và cách giải quyết vụ án với tội phạm cả về mặt tri thức cũng như tâm lý. Do đó để bảo đảm tốt nhất quyền của người dưới 18 tuổi phạm tội thì việc giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án hình sự có liên quan đến người dưới 18 phạm tội giúp họ không bị ảnh hưởng tiêu cực từ quá trình tố tụng gây ra cũng như hạn chế sự xâm phạm quyền con người do người, cơ quan tiến hành tố tụng gây nên. Tuy nhiên việc quy định cho người dưới 18 tuổi phạm tội vắng mặt theo giấy triệu tập 02 lần đang có “chiều hướng” gây trì hoãn việc giải quyết vụ án hình sự, dễ dẫn đến sự xâm phạm quyền con người đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.

Về thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế áp giải và trình tự thủ tục:  Theo quy định của BLTTHS thì Điều tra viên, cấp trưởng của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định áp giải. Quyết định áp giải, quyết định dẫn giải phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị áp giải,thời gian, địa điểm người bị áp giải phải có mặt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. Người thi hành quyết định áp giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp giải theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.

 Ngoài ra trong quá trình áp dụng biện pháp áp giải đối với người dưới 18 tuổi phải đảm bảo được sự tham gia của người đại diện, nhà trường, tổ chức theo đó  Người đại diện của người dưới 18 tuổi, thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Ðoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Người đại diện của người dưới 18 tuổi được tham gia việc lấy lời khai, hỏi cung người dưới 18 tuổi; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội người dưới 18 tuổi trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra. Ngoài ra còn phải có mặt theo trong trường hợp đưa ra xét xử người dưới 18 tuổi được quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; phát biểu ý kiến, tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Tòa án. Việc quy định trên phù hợp với Trong khi đó tại Điều 9 Công ước về quyền trẻ em quy định: “1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng trẻ em không bị buộc phải cách ly cha mẹ trái với ý muốn của cha mẹ, trừ trường hợp những nhà chức trách có thẩm quyền, tuân theo sự xem xét của pháp luật, quyết định rằng theo luật pháp và các thủ tục thích hợp thì việc cách ly như thế là cần thiết cho những lợi ích tốt nhất của trẻ em. 2. Trong mọi quá trình tố tụng căn cứ theo khoản 1 của Điều này, tất cả các bên liên quan phải được tạo cơ hội tham gia quá trình tố tụng và bày tỏ quan điểm của mình”. Với đặc điểm tâm sinh lý người dưới 18 tuổi phạm tội có trình độ nhận thức pháp luật hạn chế đã tạo nên sự bất lợi cho các em trong quá trình tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ quan tố tụng hình sự. Do vậy, việc có mặt đại diện hợp pháp trong các hoạt động tố tụng đảm bảo cho hoạt động tố tụng được diễn ra công bằng, khách quan hơn. Sự tham gia của đại diện hợp pháp cũng sẽ tạo ra tâm lý bình tĩnh, vững tin, thoải mái và không e dè, lo sợ  giúp các em khai báo trung thực hơn. Chính từ điều này giúp cho các cơ quan tố tụng hình sự giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện hơn. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là không có cơ chế buộc người đại diện, nhà trường, Đoàn thanh niên, cơ quan, tổ chức khác tham gia tố tụng cùng người dưới 18 tội phạm tội phải có mặt khi họ đã cố tình vắng mặt. Điều này gây khó khăn rất lớn trong quá trình giải quyết vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi.

  1. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ ÁP GIẢI ĐỐI ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI DƯỚI GÓC ĐỘ QUYỀN CON NGƯỜI.

Mặc dù những quy định trong BLTTHS hiện hành đã phản ánh được tinh thần bảo vệ quyền trẻ em đối với trường hợp người dưới18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, khi đi vào thực tiễn hoạt động cho thấy những quy định này còn có những bất cập, vướng mắc, hạn chế như đã phân tích ở phần thực trạng trên. Vì vậy để bảo đảm quyền con người khi áp dụng biện pháp cưỡng chế áp giải đối với chủ thể là người dưới 18 tuổi phạm tội thì tôi có một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, cần có văn bản hướng dẫn trường hợp nào được coi là “thật cần thiết có thể” áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người dưới 18 tuổi. Theo quan điểm của tác giả có thể liệt kê một số hành vi cụ thể của người bị buộc tội dưới 18 tuổi, cần thiết phải áp dụng như: “Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; có dấu hiệu bỏ trốn, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; tiếp tục phạm tội hoặc có chuẩn bị phạm tội; có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội”.

Thứ hai, nhằm giúp cho người dưới 18 tuổi phạm tội có được sự tự tin, bình tĩnh, khai báo đầy đủ, trung thực về vụ án khi CQĐT hỏi cung, lấy lời khai thì pháp luật cần quy định trong mọi trường hợp khi lấy lời khai, hỏi cung, xét xử hoặc hoạt động tố tụng khác những chủ thể này phải có mặt của đại diện gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Chính vì vậy, sự tham gia của đại diện hợp pháp củangười dưới 18 tuổi phạm tội là rất cần thiết. Để đảm bảo quyền lợi cho người dưới 18 tuổi phạm tội, đảm bảo hoạt động tố tụng được khách quan, toàn diện tác giả cho rằng BLTTHS nên quy định: “trong mọi trường hợp, việc lấy lời khai, hỏi cung bị can tại Cơ quan điều tra, VKSND, hoạt động xét xử của Tòa án bắt buộc phải có mặt của người đại diện, nhà trường, tổ chức trừ trường hợp vắng mặt thuộc trường hợp lý do khách hoặc sự kiện bất khả kháng. Trong trường hợp trừ trường hợp người đại diện, nhà trường, tổ chức cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng, sự kiện bất khả kháng thì bị dẫn giải theo quy định của Bộ luật này”.

Thứ ba, sửa đổi thuật ngữ “Bị can, bị cáo” trong các trường hợp áp giải người dưới 18 được quy định tại Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21 tháng 12 năm 2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi thành “Người bị buộc tội đã có giấy triệu tập đến lần thứ hai nhưng cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan”.

Thứ tư, Không nên “khuyến khíchviệc người dưới 18 tuổi phạm tội đang tại ngoại có hành vi “cố ý không có mặt” theo giấy triệu tập của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan đến 02 lần để gây khó khăn, cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

Kết luận: Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có những quy định rất nhiều về quyền con người của người dưới 18 tuổi phạm tôi. Quy định trên đã cơ bản đáp ứng được thực tiễn đấu tranh bảo vệ người dưới 18 tuổi phù hợp với điều kiện quốc gia và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Biện pháp cưỡng chế áp giải trong tố tụng hình sự đã quy định khá cụ thể về đối tượng, thẩm quyền, trình tự thủ tục qua đó bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội nói chung và người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi nói riêng. Thông qua chỉ ra thực trạng quy định và áp dụng quy định pháp luật về biện pháp cưỡng chế áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định trên qua đó góp phần xây dựng các cơ chế đảm bảo quyền con người, góp phần giải quyết hài hòa nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như đảm bảo tốt nhất quyền con người nhất là quyền của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.

                                                Hữu Tín - Viện KSND thành phố Sa Đéc

 

[1] Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, tr 139 -140.

[2] Đào Trí Úc, Vũ Công Giao, Bảo hiến, chủ nghĩa lập hiến và nhà nước pháp quyền, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 1-2(210-211), 2012, tr. 10-16.

[3] TS. Nguyễn Văn Quân, Sự phổ biến của chủ nghĩa hợp hiến và nhà nước pháp quyền như một chuẩn mực quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15/ 2017 ,tr 10.

[4] 5 Đặng Văn Đoài (2016), Phương hướng nội luật hóa các điều ước quốc tế đa phương trong Bộ luật hình sự năm 2015, Kỷ yếu Khoa học “Một số vấn đề về nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế trong xây dựng pháp luật hình sự”, Trường Đại học An ninh nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh, Tr.9-15.

[5] Nghị quyết 48 ngày 24/05/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

[6] Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 20.

[7] Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 20.

[8] LHQ (1989), Công ước quốc tế về Quyền trẻ em.

[9] Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật Học.

[10] Bùi Kiên Điển, Vấn đề cưỡng chế tố tụng hình sự và nguyên tắc nhân đạo, Tạp chí Luật học (1/2010), tr 18.

[11] Xem điểm k, khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015

[12] Khoản 4, Điều 23 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

[13] Xem khoản 4 Điều 12 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21 tháng 12 năm 2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi

[14] Xem khoản 1 Điều 414 BLTTHS năm 2015.

[15] Xem khoản 1, Điều 3, Công ước quốc tế về Quyền trẻ em.

[16] Xem khoản 1, Điều 40, Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em

[17] Quy tắc 2 (2.1) Quy tắc tối thiểu phổ biến về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (quy tắc Bắc Kinh - United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice/Beijing Rules) được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 29/11/1985

[18] Xem khoản 7 Điều 415 BLTTHS năm 2015.

[19] Quy tắc 20  Quy tắc tối thiểu phổ biến về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (quy tắc Bắc Kinh - United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice/Beijing Rules) được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 29/11/1985