NGUYỄN QUANG DIÊU
(1880 - 1936)
Nguyễn Quang Diêu sanh năm Canh Thìn (1880), tự là Tử Ngọc, hiệu Cảnh Sơn (nay Nam Sơn), người làng Tân Thuận, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay xã Tân Thuận Tây, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Ông nội và cha ông là những người có tiếng về Nho học, nên ngay từ thuở nhỏ ông được chăm sóc giáo dục chu đáo. Năm lên 6 tuổi ông học chữ Nho, năm 10 tuổi học chữ quốc ngữ. Năm 15 tuổi, ông lại học chữ Hán với cụ Tú Tịnh, sau đó đến Phú Thuận (Châu Đốc, nay thuộc Hồng Ngự - Đồng Tháp) tiếp tục học với cụ Tú Trần Hữu Thường, một nhà Nho yêu nước. Chính cụ Tú Thường là người làm cho Nguyễn Quang Diêu sớm thấy được cái nhục mất nước. Do đó, mặc dù tuổi còn nhỏ lại đang phải học hành, nhưng ông vẫn thường xuyên theo dõi tình hình phong trào yêu nước kháng Pháp trong cả nước. Năm 1907, ông tham gia phong trào Đông du với tư cách cổ động viên, vận động thanh niên sang Nhựt du học, quyên góp ủng hộ phong trào. Ông góp phần đưa vùng Cao Lãnh trở thành một trong những nơi có phong trào Đông du mạnh ở miền Nam.
Năm 1908, phong trào tan rã, du học sinh bị trục xuất về nước, ông bị giam cầm một thời gian mới trả tự do, song bị an trí. Ông tìm cách liên hệ với Đặng Thúc Liêng ở Sa Đéc, Nguyễn Thần Hiến ở Cần Thơ, Bùi Chí Nhuận ở Tân An, Cả Trận ở Mỹ Tho..., những cựu du học sinh Đông du bị trục xuất như Lê Văn Đáng ở Cao Lãnh, các yếu nhân của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục đang bị an trí ở Sa Đéc như Võ Hòanh, Dương Bá Trạc... để xây dựng lại phong trào ở địa phương .
Nhân cách mạng Tân Hợi Trung Quốc thành công (1911), nhà ái quốc Phan Bội Châu lập Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Quốc (tháng 5-1912), Hội cho người về móc nối với cơ sở trong nước. Cường Để về Nam kỳ, Nguyễn Quang Diêu tiếp xúc với Cường Để tại một địa điểm bí mật ở Long Xuyên (An Giang) để nhận nhiệm vụ. Tháng 5 năm 1913, ông cầm đầu một phái đoàn gồm có Đinh Hữu Thuật và 10 đồng chí khác với hai thiếu niên sang Hồng Kông hoạt động. Vừa đến nơi, tất cả đều bị thực dân Pháp bắt giải về giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), rồi đày sang đảo Guyane (Nam Mỹ). Năm 1917, ông vượt ngục trốn sang đảo Trinidad (thuộc địa Anh) giả dạng làm người Trung Quốc. Năm 1920, Nguyễn Quang Diêu sang Washinton (Mỹ) rồi về Trung Quốc, Hồng Kông tìm cách bắt liên lạc với các nhà cách mạng Việt Nam ở hải ngoại.
Suốt gần 6 năm sống và hoạt động ở Trung Quốc, ông theo con đường cách mạng tư sản do Phan Bội Châu vạch ra. Trong thời gian này, Nguyễn Quang Diêu thấy rõ những hạn chế của các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ ở Trung Quốc và còn thấu hiểu được tình hình cách mạng nước này kể từ khi Đảng Cộng Sản ra đời năm 1921.
Cuối năm 1926, ông bí mật về hoạt động trong nước. Sau một thời gian ở Sài Gòn, ông tới Sa Đéc (nay là Đồng Tháp) vào đầu năm 1927, được sự hổ trợ nhiệt tình của hai ông Võ Hoành và Phó bảng Nguyễn Sinh Huy. Từ đây, với tư cách người tù khổ sai vượt ngục, ông vẫn hăng say hoạt động, phải đổi tên nhiều lần (Nam Xương, Trần văn Vẹn..) và cải trang để đi hoạt động. Các tỉnh miền tây, nhứt là Cao Lãnh, Tân Châu, Hồng Ngự, Châu Đốc,... là những địa phương ông thường lui tới tuyên truyền giáo dục quần chúng và tạo được nhiều cơ sở cách mạng. Năm 1930, được một số hương chức làng Vĩnh Hòa (Tân Châu) giúp đở, ông mở trường dạy học ở đây. Đa số học trò của ông đều tham gia cách mạng, trong đó có nhiều người trở thành đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở hai tỉnh An Giang, Đồng Tháp.
Ngày 15-5 năm Canh Tý (1936), ông bị bịnh qua đời trong sự im lặng của một tội phạm chính trị vượt ngục, được đồng bào, đồng chí và môn sinh an táng tại làng Vĩnh Hòa (năm 1989 được cải táng ở quê nhà). Một đồng chí có câu đối điếu cụ:
Ngót hai chục năm dư, hồ hải từng Âu, Á, Mỹ;
Vừa năm mươi tuổi lẻ, dạ đài còn tạc Hiếu, Trung, Cang.
Ông để lại một lượng lớn sáng tác thơ góp phần không nhỏ trong văn học yêu nước cận đại Việt Nam, đánh dấu bước ngoặc tư tưởng trong cách mạng nước ta trong những thập niên đầu thế kỷ XX. Công lao lớn của ông là giác ngộ một số quần chúng nông dân, nhứt là thanh niên đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính chuyển sang chủ nghĩa yêu nước có xu hướng xã hội chủ nghĩa.
Tên ông được đặt cho một con đường ở thị xã Cao Lãnh và tên giải thưởng văn học nghệ thuật tỉnh Đồng Tháp.