LÊ TÂM QUẢNG
(1856 - 1927)
Ông Lê Tâm Quảng sanh năm 1856 tại làng Mỹ Trà, nhưng gốc gác gia tộc ở huyện Bồng Sơn (Quảng Ngãi), thuộc dòng dõi Nho phong, nền nếp.
Ông nội là Lê Hữu Lục, người có công với triều đình trong phong trào Cần vương. Trong gia đình có thờ một bài vị, mà trước những năm tiêu thổ kháng chiến chống thực dân Pháp, được thờ tại Đình Trung (làng Mỹ Trà); bài vị bằng chữ Hán sơn son thiếp vàng, ghi : “Truy tặng khắc Cần vương gia nguyên võ ngữ điều Hồng Ngự thủ lĩnh tánh Lê (húy) Hữu Lục (bia vị)”.
Do sự giáo huấn của gia đình, ông Lê Tâm Quảng là một người có trình độ Nho học uyên thâm đối với vùng Cao Lãnh lúc bấy giờ, lại thêm phẩm hạnh chuẩn mực trong sinh hoạt, quan hệ thường ngày, nên ông được xem như một bậc thầy đức hạnh, đáng kính, thường được dùng làm tấm gương cho mọi người noi theo. Chẳng những thế, ông còn nổi danh là một thầy thuốc có biệt tài, phần lớn các con bịnh ngặt nghèo mà những thầy thuốc khác chạy mặt, đều đươc ông trị khỏi. Nhờ ở tánh tình hòa nhã, khiêm tốn, niềm nở với mọi người không phân biệt giàu nghèo, địa vị trong xã hội, nên ông được mọi người quý mến và có nhiều bằng hữu. Nhiều nhà Nho ở địa phương thường tìm đến ông để bàn luận văn chương, thế sự và đạo lý thánh hiền. Ông không màng đến lợi danh, chỉ chú tâm đến việc trị bịnh cứu người và dạy học. Trong suốt mấy mươi năm mở trường học tại nhà, ông đào tạo nhiều thế hệ học trò đã thành danh cả Nho học lẫn y học.
Khoảng năm 1920, sau khi quận Cao Lãnh được thành lập, biết ông là người có tài năng và đức độ, được nhân dân kính phục, chủ quận Cao Lãnh nhiều lần mời ông tham gia chức việc tổng, làng xã; ông khéo léo chối từ, quyết giữ vững cuộc sống thanh bần, phẩm cách trong sạch để giáo huấn thế hệ trẻ. Để tranh thủ cho được con người tiết tháo, chủ quận Cao Lãnh nghĩ ra một chức vụ mới rất phù hợp với tài năng của ông để ông không có lý do gì để từ chối. Đó là chức Hương y, cho việc chăm sóc sức khỏe cho dân. Ông đành phải nhận. Toàn bộ làng xã Nam Kỳ, không nơi nào có chức danh này. Riêng ở làng Mỹ Trà, sau khi ông qua đời, chức danh này cũng không còn.
Đến năm 71 tuổi, ông thọ bịnh. Ông không ăn và cũng không chịu thuốc thang gì hết mặc dù con cháu hết lời cầu khẩn. Ông khư khư như thế để giữ cho thân thể và tâm hồn được trong sạch cho đến phút cuối cùng.
Ông mất ngày 12 Tháng Tám năm Đinh Mão nhằm ngày 7-9-1927, thọ 71 tuổi.