NGUYỄN THỊ TỎ
(1887-1959)
Bà Nguyễn Thị Tỏ sanh năm 1887, ở Mương Điều (làng Tân Khánh Trung, quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc). Khi trưởng thành kết hôn với ông Nguyễn Văn Ty, người cùng làng. Ông Ty là con thứ hai trong gia đình, nên mọi người thường gọi bà là bà Hai Tỏ.
Do cha mẹ hai bên đều nghèo, khi ra ở riêng, hai vợ chồng phải sang Mỹ Thành, quận Cao Lãnh (nay thuộc Bình Hàng Trung) làm tá điền cho hương cả Nhiểu, một địa chủ ở làng Mỹ Thành. Một thời gian dài làm ăn không khá, hai vợ chồng trôi dạt đến điền thầy Bảy Bồng ở Mỹ Đông (làng Mỹ Quý, quận Cao Lãnh); nhưng cũng chẳng khá gì hơn, nên khoảng 1940-1941 đành quay về thuê ruộng của hương cả Nhiểu. Cũng như bao tá điền khác ở Nam Kỳ, vợ chồng bà Hai Tỏ bị địa chủ bóc lột nặng nề. Thuê ruộng theo mẩu ta, mà đóng lúa ruộng theo mẩu tây, nên hai vợ chồng làm cật lực cũng không đủ ăn, phải vay nợ. Để nuôi sống tám người con (khi trưởng thành còn năm người: hai trai, ba gái), hai vợ chồng phải cặm câu, giăng lưới, đăng đó, lờ lợp...hoặc làm thuê làm mướn đủ mọi việc. Do gia đình nghèo lại đông con, nên các con không ai được cắp sách đến trường. Dù không học được chữ, nhưng con cái trong nhà tiêm nhiểm thói ăn nếp ở của cha mẹ lúc nào cũng hòa nhả, nhân hậu, thương người, hay giúp đở người hoạn nạn...
Sau 1954, Mỹ Diệm không thi hành hiệp định Genève. Phong trào đấu tranh của nhân dân bùng nổ khắp nơi; riêng tại làng Mỹ Thành do phong trào nhân dân đấu tranh lên cao, chúng không lập được bộ máy tề xã, nên phải sáp nhập Mỹ Thành vào Bình Hàng Trung.
Gia đình bà Hai Tỏ dù nghèo, nhưng là một cơ sở nuôi chứa cán bộ, du kích vững chắc ở xóm Ngã Tư Nhỏ (nay thuộc ấp II xã Bình Hàng Trung, huyện Cao Lãnh). Trong nhà có hầm bí mật làm bằng cái lu, nằm dưới sàn chổng, ngụy trang rất khéo. Chồng bà, ông Hai Ty cất một cái cốc (cái am nhỏ) bên hông nhà để làm nơi tụng kinh, tịnh niệm. Chính nơi này là nơi diễn ra các cuộc hội họp, lẫn tránh của cán bộ địa phương. Mỗi khi có cán bộ đến làm việc, bà Hai Tỏ thường làm công việc lặt vặt quanh nhà để canh gác. Trong nhà có đồ ăn gì ngon, kể cả cá, tôm lớn để dành bán đều được bà đem ra nấu nướng cho anh em ăn. Hai vợ chồng bà thường khuyên anh em du kích, làm cách mạng là gian khổ hy sinh, đã theo, thì nên theo đến “mút mùa”.
Trong năm người con của bà có đến ba người tham gia cách mạng là anh Bảy Hoạnh, chị Tám Thương và anh Út Hoành; anh Bảy Hoạnh và anh Út Hoành đã anh dũng đền nợ nước trong kháng chiến chống Mỹ.
Một đêm vào tháng 7-1959, nhà bà được chọn làm nơi họp của Hụyên ủy Cao Lãnh (Phân ban vùng nam) có các đồng chí Toản, Mười Đồng và Nguyễn Thanh Thế . Một toán lính Bảo an tỉnh Kiến Phong do tên Ken chiêu hồi, dẫn đường bất thần bao vây, bắt hết mọi người trong nhà, kể cả ba cán bộ trói lại. Thấy bà Hai là người già, ốm yếu đang ngồi móm mém ăn trầu ... không có gì đáng ngại, nên chúng không bắt trói. Trong lúc chúng đang lục soát, bổng nhiên bà Hai lăn xã vào chị Tám Thương, mở trói, la hét lớn tiếng...như giành con. Bọn lính đổ xô lại giành giựt chị Tám Thương với bà. Bà giành giựt quyết liệt, bọn chúng tức giận bắn bà làm tay, chân bị thương và đổ ruột. Lợi dụng cơ hội lộn xộn đó, phần lớn những người bị bắt chạy thoát qua bên kia sông. Cuối cùng chúng chỉ còn bắt được chị Tám Thương và đồng chí Toản.
Sau khi chúng rút đi, bà con chung quanh đến đưa bà xuống bịnh viện Vĩnh Long, nhưng do thương tích quá nặng , hôm sau bà qua đời.
Ngoài hai người con đã đền nợ nước, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, hành động hy sinh anh dũng đầy mưu trí của bà đã cứu thoát một số cán bộ khỏi sa vào tay giặc rất đáng được tưởng thưởng. Năm 1995, bà được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng.