Xuất bản thông tin

null Thủ tục rút gọn trong giải quyết vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm

Chi tiết bài viết VKS_HOATDONGNGANH

Thủ tục rút gọn trong giải quyết vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm

Là một thủ tục tố tụng đặc biệt, trong đó có sự rút ngắn về thời gian tố tụng, giản lược về thủ tục tố tụng và thành phần giải quyết Vụ án dân sự...

= = =

 Ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự

Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự là một thủ tục tố tụng đặc biệt, trong đó có sự rút ngắn về thời gian tố tụng, giản lược về thủ tục tố tụng và thành phần giải quyết Vụ án dân sự. Qua nghiên cứu cho thấy, Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự có các ý nghĩa cơ bản sau đây:

Thứ nhất, Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự góp phần bảo đảm hiệu quả của việc giải quyết Vụ án dân sự.

Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự được thiết lập phù hợp với tính chất từng loại tranh chấp dân sự, đáp ứng yêu cầu về tính mền dẻo, linh hoạt của tố tụng dân sự và phù hợp với điều kiện tham gia tố tụng của đương sự để họ có thể tiếp cận với công lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Trong Thủ tục rút gọn thời hạn tố tụng được rút ngắn, thủ tục tố tụng và thành phần xét xử được giản lược mà vẫn đảm bảo việc giải quyết Vụ án dân sự đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự cho nên Tòa án và các đương sự sẽ không phải mất nhiều thời gian tham gia vụ án mà vụ án sẽ được giải quyết nhanh chóng. Bên cạnh đó, với quy định về sự đơn giản hóa thủ tục tố tụng và hiệu lực của phán quyết sẽ hạn chế được hiện tượng lạm dụng quyền kháng án nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự trong vụ án. Ngoài ra, việc giải quyết Vụ án dân sự theo Thủ tục rút gọn còn là cơ sở để nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán đối với việc giải quyết nhanh chóng, đúng đắn Vụ án dân sự trước tình hình các vụ việc dân sự Tòa án phải thụ lý giải quyết ngày càng nhiều. Bởi vậy, việc giải quyết Vụ án dân sự theo Thủ tục rút gọn có ý nghĩa góp phần bảo đảm hiệu quả của việc giải quyết Vụ án dân sự.

Thứ hai, Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự góp phần kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ở mỗi quốc gia độc lập hay quan hệ ràng buộc với thủ tục tố tụng thông thường những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, dù ở vị trí như thế nào thì với sự rút ngắn thời gian tố tụng và giản lược các thủ tục tố tụng giải quyết Vụ án dân sự thì việc giải quyết các Vụ án dân sự theo Thủ tục rút gọn đều kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Do Vụ án dân sự được giải quyết theo Thủ tục rút gọn có nội dung tranh chấp đơn giản, tình tiết rõ ràng, các bên đương sự đều thừa nhận nghĩa vụ của mình nên không cần thiết phải tiến hành đầy đủ các công việc như ở thủ tục tố tụng thông thường mà có thể giản lược bớt do vậy thời gian giải quyết vụ án được rút ngắn hơn nhiều so với thời gian giải quyết Vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng thông thường. Bên cạnh đó, trước xu thế hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, các giao dịch dân sự ngày càng mở rộng dẫn đến số lượng các tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại và lao động ngày càng phát sinh theo chiều hướng gia tăng về số lượng cũng như tính chất phức tạp. Tuy vậy, biên chế của các Tòa án nhân dân không thể tăn theo mà trái lại còn phải tinh giảm điều này đã dẫn đến sự mâu thuẫn trong tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án. Việc đẩy nhanh tiến độ giải quyết tranh chấp để giải quyết tình trạng án tồn đọng luôn là yêu cầu cần thiết. Việc áp dụng Thủ tục rút gọn để giải quyết những Vụ án dân sự có nội dung đơn giản, chứng cứ đã rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp đã tạo điều kiện cho Tòa án tập trung thời gian và nguồn lực giải quyết những Vụ án dân sự khó khăn, phức tạp, khắc phục tình trạng án tồn đọng qua đó đã kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thứ ba, Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự góp phần tiết kiệm công sức, tiền của của Nhà nước và các đương sự trong việc giải quyết các Vụ án dân sự.

Nếu áp dụng một thủ tục tố tụng chung để giải quyết tất cả các Vụ án dân sự mà không phân biệt tính chất đơn giản, phức tạp, giá trị tranh chấp nhỏ hoặc lớn, có hay không sự thừa nhận nghĩa vụ của các đương sự thì sẽ gây lãng phí về thời gian và chi phí tố tụng do quá trình giải quyết Vụ án dân sự bị kéo dài. Ngoài ra, thực tế giải quyết các Vụ án dân sự còn cho thấy việc giải quyết tranh chấp kéo dài, không dứt điểm sẽ làm lỡ cơ hội kinh doanh của đương sự và như vậy có thể giảm thiểu hoặc làm mất đi nhu cầu đưa tranh chấp ra Tòa án giải quyết. Chính việc áp dụng Thủ tục rút gọn tiết kiệm được thời gian và chi phí nên không những tránh được tâm lý e ngại tiếp cận đến Tòa án mà còn khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng cơ chế hợp pháp (Tòa án) để giải quyết các xung đột. Điều này góp phần hạn chế việc đương sự sử dụng các phương thức tiêu cực nhằm giải quyết các tranh chấp của mình như: hối lộ, hình sự hóa các tranh chấp dân sự…Vì vậy, việc rút ngắn thời gian giải quyết các vụ án trong Thủ tục rút gọn được xem là một điểm quan trọng khi xây dựng các quy định của pháp luật về Thủ tục rút gọn ở nhiều nước nhằm mục đích giúp cho đương sự, Tòa án và xã hội tiết kiệm các chi phí phát sinh trong quá trình giải quyết, hạn chế gián đoạn và tránh bỏ lỡ chi phí cơ hội trong hoạt động kinh doanh của đương sự.

  1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục rút gọn trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm

-  Các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự rút gọn

       Cũng giống như thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết các Vụ án dân sự, thủ tục tố tụng dân sự cũng gọn cũng quy định về các hoạt động tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm nhằm mục đích để Tòa án, các bên đương sự chuẩn bị các điều kiện để tiến hành, tham gia xét xử vụ án theo Thủ tục rút gọn thì việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo Thủ tục rút gọn cũng phải thực hiện trong khoảng thời gian nhất định. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo Thủ tục rút gọn là khoảng thời gian xác định từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án đến thời điểm Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo Thủ tục rút gọn. Do vụ án giải quyết theo Thủ tục rút gọn có tính chất đơn giản, rõ ràng về sự việc, áp dụng pháp luật và không có yếu tố nước ngoài trong quan hệ tranh chấp nên thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo Thủ tục rút gọn ngắn hơn thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án được giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, thời hạn này cần phải được tính toán trên cơ sở vẫn phải đảm bảo cho Tòa án, các đương sự có đủ thời gian để tiến hành các hoạt động cần thiết cho việc Tòa án ra phán quyết chính xác và đúng pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo Thủ tục rút gọn là 30 ngày, kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án được áp dụng chung cho tất cả các Vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại. Hoạt động tố tụng dân sự trong giai đoạn này được Thẩm phán khi được phân công sẽ thực hiện các công việc như sau: a) Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật này; b) Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác;c) Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng; d) Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;đ) Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này;e) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;g) Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn;h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật này”

Một trong những điểm khác biệt so với các hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm các vụ án theo thủ tục thông thường, hoạt động trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm các Vụ án dân sự rút gọn được Thẩm phán thực hiện không phải đầy đủ toàn bộ các nhiệm vụ trên đó. Cụ thể, thông qua các điều luật về Thủ tục rút gọn, Thẩm phán không cần phải thực hiện các hoạt động: (1) Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; (2) Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; (3) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Như vậy trong thời hạn 30 ngày thì Thẩm phán thực hiện các hoạt động bao gồm: Lập hồ sơ vụ án, xác định tư cách của đương sự và người tham gia tố tụng khác; làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án; xác định quan hệ trong chấp cũng như quan hệ pháp luật cần áp dụng.

Mặc dù Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định cụ thể các quyết định tố tụng mà Thẩm phán có thể ban hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm các Vụ án dân sự rút gọn. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định về trình tự thủ tục giải quyết Vụ án dân sự thì có thể xác định được các quyết định tố tụng của Thẩm phán có thể ban hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử các Vụ án dân sự rút gọn bao gồm: (1) Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; (2) Quyết định đưa vụ án ra xét xử. (3) Quyết định chuyển Vụ án dân sự sang giải quyết theo thủ tục thông thường; (4) Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Tuy nhiên có một thực tế là vấn đề ban hành các quyết định tạm đình chỉ Vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử các vụ án theo Thủ tục rút gọn vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Bởi lẽ căn cứ quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định chung tại Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và căn cứ chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường tại khoản 3 Điều 317 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vẫn có nhiều căn cứ không giống nhau.

Bên cạnh đó Khoản 3 Điều 317 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định, nếu xảy ra các trường hợp sau đây thì Toà án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường: phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định; cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không thống nhất về giá; cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập; phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ởnước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải thực hiện ủy thác tư pháp. Tóm lại, theo điều luật trên, đây là những tình tiết mới có thể làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để áp dụng Thủ tục rút gọn trong giải quyết Vụ án dân sự do mất đi tính chất đơn giản của vụ án.

Về vấn đề chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường, chúng tôi đồng ý với quan điểm của nhà lập pháp đối với các trường hợp phát sinh tình tiết mới làm mất đi điều kiện để áp dụng Thủ tục rút gọn, ngoại trừ ba điều kiện liên quan đến biện pháp khẩn cấp tạm thời; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu phản tố hoặc độc lập. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đương sự, người đại diện của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền yêu cầu Toà án áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời với mục đích giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, chứng cứ và đảm bảo thi hành án. Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên toà do một Thẩm phán quyết định (Điều 112 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015) trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ khi nhận đơn (Điều 133 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Pháp luật tố tụng dân sự cũng quy định những trường hợp khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm để tránh sự lạm quyền (Điều 136 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Vì thế, việc cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu xét về thủ tục hay bản chất không làm cho vụ án thêm phức tạp, hoặc làm kéo dài thêm thời gian giải quyết vụ án, và do vậy, không làm mất đi tính chất đơn giản của Vụ án dân sự. Đối với hai trường hợp còn lại là xuất hiện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu phản tố hoặc độc lập, chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng, tự bản thân các trường hợp này không đương nhiên làm cho vụ án phức tạp hơn để chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Theo đó, nếu các đương sự vẫn thừa nhận nghĩa vụ của họ đối với nhau, tài liệu chứng cứ rõ ràng để Toà án có thể tìm ra dễ dàng sự thật khách quan và vẫn đáp ứng đầy đủ những điều kiện để áp dụng Thủ tục rút gọn thì vụ án vẫn không bị mất đi tính chất đơn giản để Toà án có thể áp dụng Thủ tục rút gọn và cho ra bản án trong thời gian sớm nhất nhằm giải quyết quyền lợi chính đáng cấp thiết của đương sự.

Cũng giống như thủ tục tố tụng dân sự thông thường, khi kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử các Vụ án dân sự theo Thủ tục rút gọn thì Thẩm phán được phân công phải ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nội dung của quyết định này có những điểm chung so với quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục thông thường tuy nhiên có một điểm khác biệt cơ bản là tên quyết định, và nội dung về thành phần hội đồng xét xử (có một Thẩm phán). Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo Thủ tục rút gọn, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo Thủ tục rút gọn, Chánh án Tòa án phải ra một trong các quyết định sau đây: a) Giữ nguyên quyết định đưa vụ án ra xét xử theo Thủ tục rút gọn; b) Hủy quyết định đưa vụ án ra xét xử theo Thủ tục rút gọn và chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Có thể nhận thấy, đây là một điều khoản về khiếu nại, kiến nghị dành riêng cho Thủ tục rút gọn với thủ tục giải quyết khiếu nại cũng rút gọn, khi chỉ quy định một thời gian rất ngắn để giải quyết (03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị). Tuy nhiên, có một câu hỏi đặt ra là nếu một vụ án thoả mãn những điều kiện để áp dụng Thủ tục rút gọn nhưng Toà án lại không áp dụng để giải quyết theo Thủ tục rút gọn, thì liệu đương sự, Viện kiểm sát có quyền khiếu nại hoặc kiến nghị hay không? Theo khoản 2 Điều 316 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “những quy định của Phần này được áp dụng để giải quyết vụ án theo Thủ tục rút gọn; trường hợp không có quy định thì áp dụng những quy định khác của Bộ luật này để giải quyết vụ án”. Rải rác trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là các điều luật quy định về khiếu nại, kiến nghị đối với các quyết định và hành vi tố tụng của người, cơ quan tiến hành tố tụng như Điều 140 về khiếu nại, kiến nghị quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Điều 194 về khiếu nại, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện… Tuy nhiên, những điều luật như vậy chỉ quy định về việc khiếu nại, kiến nghị cho những trường hợp cụ thể mà không áp dụng được cho Thủ tục rút gọn. Bên cạnh đó, Điều 499 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, mở đầu cho Chương XLI về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự nằm trong Phần thứ mười của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định rằng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nếu có kháng cáo, kháng nghị và các quyết định tố tụng khác do người tiến hành tố tụng dân sự ban hành nếu có khiếu nại, kiến nghị thì không giải quyết theo quy định tại Chương này mà được giải quyết theo quy định của các chương tương ứng của BLtố tụng dân sự. Nói cách khác, chỉ khi các quyết định hay hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự thì việc khiếu nại của đương sự mới thuộc phạm vi điều chỉnh của Chương này. Như vậy, câu hỏi đặt ra trong trường hợp này là liệu việc không áp dụng Thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án dù vụ án đáp ứng đủ các điều kiện để tiến hành giải quyết theo Thủ tục rút gọn có được xem là quyết định hay hành vi trái pháp luật của Toà án nói chung và của Thẩm phán nói riêng hay không? Như đã bàn luận ở trên, các điều kiện để áp dụng Thủ tục rút gọn mà Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định phần nhiều mang tính chất định tính, do vậy, việc có áp dụng Thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự phán xét của Thẩm phán; khó có thể nói việc không giải quyết vụ án theo Thủ tục rút gọn là trái pháp luật. Như vậy, căn cứ vào những lập luận trên, đương sự rất khó hoặc có thể nói là không thể áp dụng những quy định tại Chương XLI Phần thứ mười của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để thực hiện quyền khiếu nại của mình đối với việc Toà án không xét xử vụ án theo Thủ tục rút gọn. Bên cạnh đó, nếu vận dụng điều khoản này để giải thích theo hướng chấp nhận quyền khiếu nại của đương sự thì vô hình chung chúng ta đã bỏ qua quyền kiến nghị của Viện kiểm sát.

-  Các quy định về xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn

Thứ nhất, về thành phần tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng

Như đã được luận giải tại mục “Đặc điểm thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự” thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là một trong các thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự: Đặc biệt về các vụ việc được áp dụng, đặc biệt về thành phần giải quyết và tham gia tố tụng và đặc biệt về các công việc và trình tự tiến hành[1]. Những vụ kiện dân sự được giải quyết thông qua Thủ tục rút gọn đều vận dụng cơ chế một Thẩm phán giải quyết mà không có sự tham gia của hội thẩm nhân dân, Đây là một điểm đặc biệt về thành phần giải quyết và tham gia tố tụng được ghi nhận trong Hiến pháp, các quy định về thành phần người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự rút gọn được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, tại Điều 65 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành.”. Quy định này đã làm cho việc mở phiên tòa trở nên linh hoạt, rút ngắn được thời gian và giảm chi phí tổ chức phiên tòa. Việc thể chế hóa các cơ chế xét xử 01 Thẩm phán khi giải quyết các Vụ án dân sự rút gọn là phù hợp với yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, lịch sử, xu hướng hội nhập quốc tế cũng như thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trên con đường cải cách tư pháp hiện nay. Xét thấy những vụ kiện có nội dung đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự thừa nhận nghĩa vụ; chứng cứ đầy đủ và rõ ràng, nếu giao cho một Thẩm phản độc lập xét xử thì vẫn bảo đảm tính chính xác và đúng pháp luật. Việc quy định một Thẩm phán độc lập giải quyết vụ kiện theo Thủ tục rút gọn vừa tạo điều kiện cho Thẩm phán có thể chủ động trong công tác giải quyết án của mình, vừa nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán khi ra phán quyết đồng thời tiết kiệm cho Nhà nước cả về nguồn lực con người và chi phí. Bởi lẽ, các vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng thì không thể có cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nên Thẩm phản không thể đặt cược danh dự của mình để đưa ra phán quyết trái luật; còn đối với các vụ án có giá trị tranh chấp thấp thì Thẩm phán cũng khó có thể lạm quyền hoặc để xảy ra tiêu cực vì sẽ làm ảnh hưởng đến vị thế và sự nghiệp của Thẩm phán, nhất là khi Thẩm phản được bổ nhiệm với nhiệm kỳ dài hơn nhiều so với trước đây. Quy định này đã được thể hiện rõ trong Điều 65 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phản tiến hành”. Cơ chế xét xử bằng một Thẩm phán không có sự tham gia của HTND trong thành phần hội đồng xét xử phù hợp với khoản 1 và khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, tri trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” và “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa sổ, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Do yêu cầu về giản lược thành phần tiến hành tố tụng nên việc xét xử phúc thẩm vụ án dân sự theo Thủ tục rút gọn cũng chỉ do một Thẩm phán tiến hành. Tuy nhiên về mặt thuật ngữ pháp lý, khoản 2 Điều 324 Bộ luật này lại quy định “Hội đồng xét xử vấn tiến hành xét xử” sẽ dẫn đến cách hiểu là việc xét xử phúc thẩm theo Thủ tục rút gọn vẫn do một hội đồng xét xử gồm nhiều Thẩm phán tiến hành.

Mặt khác, theo quy định tại Điều 320 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định về sự có mặt của KSV Viện kiểm sát cùng cấp tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo Thủ tục rút gọn để tiến hành phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án cũng như kiểm sát sự tuân theo pháp luật của Thẩm phán và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết Vụ án dân sự theo quy định của BLtố tụng dân sự. Vị trí, vai trò của Viện KSND trong tố tụng dân sự rất to lớn, điều này đã được thực tiễn chứng minh thông qua việc mở rộng phạm vi tham gia của Viện KSND khi giải quyết các vụ việc dân sự. Theo đó tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật khi Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này. Trong trường hợp KSV tham gia phiên tòa thì Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện KSND cùng cấp trong thời hạn theo quy định. Trong vòng 03 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, Viện KSND nghiên cứu và trả lại hồ sơ vụ án được giải quyết theo Thủ tục rút gọn.

Xung quanh vấn đề sự tham gia của Viện KSND trong quá trình giải quyết Vụ án dân sự theo Thủ tục rút gọn còn rất nhiều quan điểm khác nhau. Theo TS. Trần Phương Thảo “do tính chất vụ việc quá đơn giản, chứng cứ dùng để giải quyết vụ việc đã rõ ràng, nghĩa vụ đã được bị đơn thừa nhận hay giá trị tranh chấp nhỏ nên quy định về sự tham gia của Viện KSND cũng không nên cứng nhắc. Viện KSND vẫn có thể kiểm sát được việc giải quyết vụ việc dân sự được giải quyết theo thủ tục rút gọn bằng cách sau khi Tòa án thực hiện xong thủ tục giải quyết vụ việc, Tòa án chuyển hồ sơ sang cho Viện KSND để Viện KSND giám sát việc tuân theo pháp luật[2]. Đồng với quan điểm trên, TS. Nguyễn Văn Cường và ThS. Phùng Thị Hoàn cho rằng “khi giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn thì Kiểm sát viên không cần phải tham gia phiên tòa, phiên họp. Kiểm sát viên kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn thông qua hồ sơ giải quyết vụ việc. Bởi, theo xu thế phát triển chung của tố tụng dân sự trên thế giới, cần bảo đảm xu hướng “việc dân sự cốt ở đôi bên”. Viện KSND có vai trò, quyền hạn kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, nhưng kiểm sát như thế nào thì cần phù hợp với từng lĩnh vực tố tụng. Trong tố tụng dân sự, nhất là đối với vụ việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Viện KSND không cần thiết phải tham gia phiên toà, phiên họp[3]”. Tác giả có quan điểm khác so với quan điểm trên của các tác giả cho rằng không cần thiết để Viện KSND trong quá trình giải quyết Vụ án dân sự rút gọn. Mặc dù dường như đại đa số các nước trên thế giới đều quy định cơ quan công tố không có vai trò trong việc giải quyết các Vụ án dân sự. Cơ quan công tố, theo họ, chỉ có quyền năng chính là truy tố và buộc tội trong các vụ án hình sự. Tuy nhiên ở Việt Nam và một số ít nước còn lại mà pháp luật còn chịu sự ảnh hưởng nhất định của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa trước đây, vai trò của Viện kiểm sát còn mở rộng trong việc giám sát hoạt động xét xử của Tòa án và do đó, Viện kiểm sát có vai trò, chức năng với các mức độ khác nhau và tùy vào từng thời điểm lịch sử cụ thể, trong quá trình giải quyết Vụ án dân sự. Cho đến thời điểm hiện tại có thể khẳng định rằng thiết kế Viện KSND trong tố tụng dân sự vẫn phát huy tốt vai trò và ý nghĩa của nó trong quan hệ tố tụng dân sự bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự. Thực tế, trong quan hệ tố tụng dân sự quyền và lợi ích của các đương sự rất dễ bị xâm phạm nhất là đối với các Vụ án dân sự được rút ngắn về thời gian tố tụng cũng như đã bị lược bớt những trình tự thủ tục tố tụng thì cần có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong vòng xoay tố tụng dân sự rút gọn. Cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tốt nhất vẫn là thông qua cơ chế kiểm sát hoạt động tuân thủ pháp luật của Tòa án khi giải quyết các Vụ án dân sự rút gọn. Thủ tục rút gọn cần đảm bảo rút ngắn về thời gian, đơn giản về thủ tục và không phức tạp về thành phần tiến hành tố tụng. Nếu Viện KSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thông qua hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển đến và thực hiện quyền kháng nghị quyết định/bản án sơ thẩm nếu có căn cứ hợp pháp thì sẽ không thể hiện hết vị trí, vai trò của Viện KSND trong tố tụng dân sự. Việc kiểm sát trực tiếp thông qua việc tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án cũng như kiểm sát sự thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng về trình tự thủ tục nhằm tránh để Thẩm phán lạm quyền trong cơ chế xét xử một Thẩm phán. Theo đó tại phiên tòa sơ thẩm xét xử Vụ án dân sự theo Thủ tục rút gọn, KSV phát biểu ý kiến của VKS theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 28 của Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-Viện KSNDTC-TANDTC ngày 31/08/2016 quy định việc phối hợp giữa Viện KSND và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của BLtố tụng dân sự. KSV cần phân tích, lập luận đầy đủ các câu hỏi của Thẩm phán và câu trả lời của đương sự. Từ đó, KSV tự rút ra kết luận việc thu thập chứng cứ, chứng minh đầy đủ của việc dân sự? Có hay không nội dung, tình tiết mới xuất hiện? Kiểm tra lại Điều kiện áp dụng Thủ tục rút gọn quy định tại Điều 317 BLtố tụng dân sự. Trường hợp phát hiện vi phạm thì KSV đề nghị hội đồng xét xử ban hành quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường; Nếu tại phiên họp phát hiện có sự vi phạm thì KSV phải xem xét, đánh giá xác định mức độ vi phạm, căn cứ pháp luật để phát biểu kiến nghị về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán hoặc đề xuất kháng nghị theo thẩm quyền khi kết thúc phiên họp. KSV cần phát biểu quá trình kiểm sát chặt chẽ về những vấn đề như: Về thủ tục tố tụng thì kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán giải quyết việc dân sự, Thư ký phiên họp kể từ khi thụ lý việc dân sự cho đến trước thời điểm Thẩm phán ra quyết định giải quyết việc dân sự; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý việc dân sự cho đến trước thời điểm Thẩm phán ra quyết định giải quyết việc dân sự; về quan điểm giải quyết việc dân sự thì: Phát biểu tính có căn cứ và hợp pháp của yêu cầu giải quyết việc dân sự; Phân tích, đánh giá, nhận định về nội dung sự việc, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ; nêu rõ căn cứ pháp luật hoặc các căn cứ quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được áp dụng để giải quyết việc dân sự;nêu rõ quan điểm về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của người yêu cầu giải quyết việc dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Có như vậy thì quyền và lợi ích của đương sự mới được bảo đảm và việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán mới được đề cao.

Thứ hai, trình tự, thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm.

Điểm khác biệt lớn nhất của phiên tòa sơ thẩm theo Thủ tục rút gọn và phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục tụng thông thường là ở thủ tục hòa giải tại phiên tòa, bởi lẽ đặc thù của vụ án giải quyết theo Thủ tục rút gọn là tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng và được các bên thừa nhận, đồng nghĩa với việc các bên đương sự không có tranh chấp và căn bản đã có sự thống nhất thì không nhất thiết phải hòa giải nên nhà làm luật đã bỏ thủ tục hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử mà buộc Thẩm phán tiến hành hòa giải, công khai chứng cứ ngày sau khi khai mạc phiên tòa.Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, phiên toà sơ thẩm phải được tiến hành theo tuần tự các bước khai mạc, thẩm vấn, tranh luận, nghị án và tuyên án. Theo chúng tôi đối với những vụ kiện được giải quyết theo Thủ tục rút gọn thì không nhất thiết phải trải qua đầy đủ các bước như vậy. Mục đích của xét xử là xác định sự thật khách quan, áp dụng đúng pháp luật để giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự. Nếu sự thật khách quan đã được xác định rõ ràng thì vấn đề chỉ là Thẩm phán áp dụng pháp luật để giải quyết mà thôi. Đối với những việc có chứng cứ rõ ràng, các tình tiết của vụ kiện đã được xác định, vụ việc không có tranh tụng thì không nhất thiết trường hợp nào phiên toà cũng phải trải qua các tuần tự các bước thẩm vấn, tranh luận, nghị án và tuyên án. Theo đó, Thẩm phán tiến hành thủ tục khai mạc phiên tòa theo quy định tại Điều 239 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Cụ thể là: Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử; Thư ký phiên tòa báo cáo Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và lý do vắng mặt; Thẩm phán chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và kiểm tra căn cước của đương sự, người tham gia tố tụng khác; Chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền, nghĩa vụ của đương sự và của người tham gia tố tụng khác; Chủ toạ phiên tòa giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; Chủ tọa phiên tòa hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai không; Yêu cầu người làm chứng cam kết khai báo đúng sự thật, nếu khai không đúng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trừ trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên; Yêu cầu người giám định, người phiên dịch cam kết cung cấp kết quả giám định chính xác, phiên dịch đúng nội dung cần phiên dịch. Sau khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán tiến hành hòa giải, trừ trường hợp không được hòa giải theo quy định tại Điều 206 hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 của Bộ luật này. Thẩm phán không phải kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và công bố tài liệu, chứng cứ như giải quyết vụ án theo thủ tục thông thường. Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử. Việc trình bày, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án được thực hiện như giải quyết vụ án theo thủ tục thông thường theo quy định tại Mục 3 Chương XIV của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nếu tại phiên tòa mà phát sinh tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo Thủ tục rút gọn thì Thẩm phán xem xét, ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Nhà lập pháp cũng đã dự liệu việc chuyển hóa từ thủ tục tố tụng rút gọn sang thủ tục tổ tụng thông thường nếu phát sinh tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tại phiên tòa làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo Thủ tục rút gọn. Khi đó, thời hạn xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường, tạo điều kiện thuận lợi cho Thẩm phán có thêm thời gian để giải quyết tranh chấp nhưng xét đến thời gian tổng thể để giải quyết vụ án sẽ bị kéo dài hơn so với trường hợp giải quyết yêu cầu khởi kiện của đương sự ngay từ đầu thụ lý theo thủ tục thông thường. Nhằm bảo đảm chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định bản án, quyết định sợ thẩm của Tòa án theo Thủ tục rút gọn không có giá trị chung thẩm, có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để yêu cầu Tòa án phúc thẩm giải quyết lại theo Thủ tục rút gọn và có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này. Về cơ bản thủ tục phiên tòa rút gọn không có sự khác biệt so với phiên tòa thông thường.

Kết luận: Thủ tục rút gọn là thủ tục được giản lược một số thủ tục tố tụng trong thủ tục tố tụng thông thường nhằm mục đích giải quyết những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng…… được nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm được chi phí cho đương sự và cho nhà nước.Thủ tục này đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng và nó đang phát huy hiệu quả. Đặc biệt, trước thực tế ở Việt Nam hiện nay khi số lượng vụ án dân sự các Tòa án phải giải quyết ngày càng tăng, lượng án tồn của ngành Tòa án mỗi năm rất cao thì việc áp dụng thủ tục này càng cần thiết. Vì vậy, việc Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 năm 2015 quy định Thủ tục rút gọn trong giải quyết vụ án dân sự là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế. Các quy định về điều kiện, phạm vi, trình tự thủ tục giải quyết các vụ án dân sự theo Thủ tục rút gọn của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 năm 2015 cơ bản đã khoa học, đáp ứng được nhu cầu của hoạt động giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có một số quy định vẫn còn chưa phù hợp, vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, cách hiệu vẫn còn chưa được thống nhất như các quy định về điều kiện về áp dụng thủ tục rút gọn hay trình tự thủ tục tại phiên tòa xét xử đã có nhiều thủ tục được lược bỏ tuy nhiên vô hình chung vẫn không khác gì cho với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục thông thường. Do vậy để các quy định thủ tục Thủ tục rút gọn mang tính khả thi cao thì khi ban hành ngoài việc phải dựa trên hoàn cảnh thực tế ở nước ta hiện này còn phải học hỏi kinh nghiệm của bạn bè quốc tế đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc ban hành và áp dụng thủ tục này để giải quyết vụ án trong thực tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Tài Tuấn Anh (2020), Thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
  2. Nguyễn Văn Bình (2018), Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp - Việt, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
  3. Nguyễn Huy Đẩu (1962),Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Khai trí. năm 1962;
  4. Vũ Quang Dũng (2008), Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  5. Lê Thu Hà (2015), “Bổ sung thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi)”, Nhà nước và Pháp luật (02).
  6. Đặng Thanh Hoa (2013), Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức cá nhân kinh doanh bằng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
  7. Đặng Thanh Hoa (2015), Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
  8. Nguyễn Vinh Hưng (2016) “Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015”,Kiểm sát (19).
  9. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2017), “Bình luận một số quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”,Nghiên cứu lập pháp(06).

 

[1] Nguyễn Công Bình (2014), “Chuyên đề 1: Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, do Trần Anh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội, tr.135

[2]TS. Trần Phương Thảo , Chuyên đề 3, “sự tương đồng và khác biệt giữa thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục tố tụng dân sự rút gọn”,Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, do Trần Anh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội tr. 161.

[3] TS Nguyễn Văn Cường, Ths. Phùng Thị Hoàn - Viện khoa học xét xử - TANDTC, Chuyên đề 6, “Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự và yêu cầu về xây dựng thủ tục rút gọn”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, do Trần Anh Tuấn làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội tr. 198.

Hữu Tín - Viện KSND Tp Sa Đéc